Để hưởng ứng tổ chức thực hiện ngày khoa học và công nghệ Việt Nam 18-5. Ngày 06/5/2015, tại xã Minh Sơn, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (KH&KT) Hà Giang đã phối hợp UBND xã Minh Sơn tổ chức Hội thảo khoa học "Tham vấn địa phương về ảnh hưởng của hoạt động khai thác khoáng sản đến rừng và đa dạng sinh học tại địa bàn xã Minh Sơn, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang. Đồng chí Phó Chủ tịch thường trực Liên hiệp các Hội KH&KT Hà Giang và đồng chí Chủ tịch UBND xã Minh Sơn chủ trì hội thảo. Dự Hội nghị, hội thảo có đại diện lãnh đạo UBND huyện Bắc Mê; Đại diện Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Bắc Mê; Lãnh đạo đại diện các doanh nghiệp khai thác khoáng sản trên địa bàn xã Minh Sơn, huyện Bắc Mê: Công ty cổ phần đầu tư khoáng sản An Thông và Công ty cổ phần khoáng sản Minh Sơn; đại diện thường trực Đảng ủy, HĐND, UBND xã Minh Sơn; đại diện các thôn/bản trong xã, đại diện các hộ gia đình các thôn/bản chịu tác động trực tiếp của hoạt động khai thác khoáng sản; tham gia hội thảo còn có các phóng viên Báo Hà Giang, Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Giang đến dự và đưa tin.
Toàn cảnh Hội nghị, hội thảo tại xã Minh Sơn, Bắc Mê, Hà Giang
Ông Cao Hồng Kỳ, Phó Chủ tịch thường trực Liên hiệp các Hội KH&KT Hà Giang thay mặt nhóm nghiên cứu báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài "Tham vấn địa phương về ảnh hưởng của hoạt động khai thác khoáng sản dến rừng và đa dạng sinh học tại địa bàn xã Minh Sơn, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang".
Minh Sơn là một xã vùng 3 khó khăn của huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang có tài nguyên khoáng sản tương đối giàu, đặc biệt là các loại khoáng sản sắt, chì và kẽm. Hiện nay, trên địa bàn xã có 05 công ty (An Thông, Minh Sơn, An Khang, Hoàng Bách và Trường Thanh) được cấp giấy phép hoạt động khoáng sản tại 08 điểm mỏ, với tổng diện tích 465,36 ha. Hoạt động khai thác khoáng sản trên địa bàn xã Minh Sơn đã đóng góp một phần đáng kể cho nguồn thu ngân sách nhà nước huyện Bắc Mê (gần 50% tổng thu ngân sách của huyện), góp phần tạo ra việc làm và thu nhập cho gần 100 lao động địa phương. Tuy nhiên, những hệ lụy của hoạt động khai thác khoáng sản đã và đang tác động xấu đến môi trường sống của cộng đồng người dân địa phương ở đây.
Được sự hỗ trợ của Quỹ MacArthur cho Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), nhóm nghiên cứu gồm các cán bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hà Giang và chuyên gia PanNature đã tiến hành khảo sát nghiên cứu thực địa, kết hợp phỏng vấn 132 người dân địa phương, cán bộ đại diện cho các phòng, ban chuyên môn của xã Minh Sơn, của huyện Bắc Mê và của đại diện các doanh nghiệp hoạt động khoáng sản tại xã.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có hơn 30,3 ha đất rừng phòng hộ của xã Minh Sơn bị mất đi do phải chuyển đổi mục đích sử dụng sang khai thác khoáng sản. Trữ lượng rừng bị mất đi do phải chặt hạ cho khai trường tại mỏ sắt Sàng Thần gần 10 ha, tương đương 1.751m3 gỗ nhóm II đến nhóm VIII.
Từ khi diễn ra hoạt động khai thác khoáng sản, kết hợp với sự ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đã dẫn đến các loài chim, thú và các loại động vật rừng như sóc bay, chồn, cáo, lợn rừng, trăn, rắn; các loài chim như chào mào, chim gáy, sáo, cú, quạ, bìm bịp, gà rừng ít gặp hơn so với trước đây.
Hoạt động khai thác khoáng sản và quá trình canh tác nương dẫy không khoa học cũng đã làm suy giảm các loại cây thực phẩm và các loại cây thuốc quý trong rừng như nấm đất, thảo quả, óc chó, sa nhân, gừng, nghệ, lá khôi, kim tuyến và những cây làm men rượu.
Việc chặt hạ cây rừng đầu nguồn, cùng với việc sử dụng một lượng nước quá lớn từ nguồn nước suối Lũng Vầy (hơn 1.300m3/ngày đêm theo Báo cáo ĐTM của công ty An Thông và Minh Sơn) cho việc tuyển quặng đã làm suy giảm, cạn kiệt đáng kể nguồn nước sản xuất và sinh hoạt của cộng đồng dân cư tại 5 thôn: Lũng Vầy, Khuổi Kẹn, Nà Sáng, Bình Ba và Ngọc Trì. Vào mùa khô, người dân ở một số thôn/bản đã phải đi gánh nước từ những nơi khác về để sử dụng cho sinh hoạt. Hiện nay, người dân sống dọc theo suối Lũng Vầy không thể sử dụng nước suối này cho sinh hoạt hoặc những hoạt động khác nữa, vì lý do nguồn nước bị nhiễm bẩn. Nếu tắm, giặt bằng nguồn nước này sẽ bị mắc bệnh ngứa da, viêm da. Người dân địa phương cho biết độ đục của nước suối Lũng Vầy hiện nay là quá lớn đã dẫn đến sự biến mất của một số loài động vật thủy sinh như tôm càng xanh, cua, cá, ếch, nhái, đặc biệt loại cá Sứt mũi và cá Anh vũ quý hiếm. Bên cạnh đó, sản lượng các loài thủy sinh tự nhiên sống ở suối cũng bị giảm đi rất nhiều. Nếu như trước đây, người dân chỉ cần đi đánh bắt khoảng 1 giờ là có đủ thức ăn cho gia đình (4 người) thì hiện nay không thể đánh bắt được nữa.
Tham luận của người dân địa phương xã Minh Sơn, Bắc Mê, Hà Giang
Ngoài ra, nhóm nghiên cứu phát hiện chưa có sự công bằng trong việc phân chia các lợi ích từ hoạt động khai thác khoáng sản. Sản xuất và đời sống của cộng đồng người dân địa phương, đặc biệt là người dân ở các thôn có hoạt động khai thác khoáng sản và các thôn/bản dọc hai bên đường vận chuyển quặng bị chịu tác động không nhỏ bởi mất đất, mất rừng, sống trong môi trường bị ô nhiễm bởi nước thải, chất thải và khí bụi vùng mỏ. Người dân địa phương phản ánh: Cuộc sống, đi lại của người dân địa phương hiện nay khó khăn và nguy hiểm hơn so với trước đây khi đường xá bị xuống cấp, hư hỏng nặng bởi sự vận chuyển liên tục của một trăm chuyến xe tải chở quặng hạng nặng trong một ngày-đêm đi qua; nguồn nước suối không sử dụng được nữa cho sinh hoạt; việc vào rừng lấy măng, khai thác củi bị hạn chế bởi các trạm barie của các nhà máy và công trường khai mỏ. Trong khi đó, doanh thu hàng năm của các doanh nghiệp từ hoạt động khai thác khoáng sản tại xã Minh Sơn là rất lớn. Kết quả khảo sát tại doanh nghiệp, trong 3 năm gần đây (2012-2014) doanh thu của Công ty An Thông là 427,966 tỷ đồng, của Công ty Minh Sơn là 16,587 tỷ đồng; nộp thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường cho ngân sách huyện Bắc Mê là 156,44 tỷ đồng (Công ty An Thông 153,27 tỷ đồng và Công ty Minh Sơn 3,17 tỷ đồng).
Tham gia ý kiến thảo luận của doanh nghiệp khoáng sản
Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị như sau:
Thứ nhất, để đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững, hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, các doanh nghiệp cần triển khai các biện pháp bảo vệ môi trường trong hoạt động khoáng sản; tích cực trồng cây xanh quanh khu vực khai thác và khu vực dọc các tuyến đường từ trung tâm xã qua thôn Khuổi Kẹn. Việc giám sát các hoạt động khai thác khoáng sản của doanh nghiệp cần thiết phải được tiến hành bởi cộng đồng người dân và chính quyền địa phương.
Thứ hai, doanh nghiệp cần tích cực hỗ trợ người dân địa phương về phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo thông qua các hoạt động như hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi; mô hình, kỹ thuật canh tác, chăn nuôi phát triển kinh tế trên chính mảnh đất của mình bên cạnh những hỗ trợ về thăm hỏi, tặng quà Tết của doanh nghiệp.
Thứ ba, kiến nghị với UBND tỉnh và UBND huyện Bắc Mê cần có cơ chế và tỷ lệ phân bổ kinh phí hợp lý từ nguồn thu hoạt động khai thác khoáng sản theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 74/2011/NĐ-CP ngày 25/8/2011 của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản. Đặc biệt, đối với nguồn thu từ phí bảo vệ môi trường hiện nay đang được phân bổ 100% về ngân sách cấp huyện.
Thư tư, kiến nghị UBND tỉnh sớm ban hành quy định về trách nhiệm của các doanh nghiệp khai thác khoáng sản trong việc đóng góp kinh phí cùng với Nhà nước thực hiện khắc phục, cải tạo, sửa chữa, nâng cấp các tuyến đường giao thông do hoạt động vận chuyển khoáng sản của doanh nghiệp gây ra theo quy định tại Điều 5 của Luật khoáng sản năm 2010.
Cao Hồng Kỳ, PCT thường trực Liên hiệp các Hội KH&KT Hà Giang.