Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp từ ngày 20-01-2016 đến ngày 28-01-2016, tại Thủ đô Hà Nội, trong đó họp phiên trù bị ngày 20-01-2016, khai mạc chính thức ngày 21-01-2016. Đây là sự kiện trọng đại của đất nước ta trong năm 2016.
Với tinh thần "Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đổi mới", với ý thức trách nhiệm cao trước Đảng, nhân dân và đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã hoàn thành tốt đẹp toàn bộ nội dung, chương trình đề ra.
Phần thứ nhất: Quá trình chuẩn bị Đại hội
I- Về việc chuẩn bị các Văn kiện trình Đại hội
1- Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (họp tháng 9- 2013) đã quyết định thành lập 05 Tiểu ban chuẩn bị Đại hội XII của Đảng gồm:
- Tiểu ban Văn kiện, do đồng chí Nguyễn Phú Trọng Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng làm trưởng tiểu ban. Tiểu ban có nhiệm vụ chuẩn bị Báo cáo chính trị, dự thảo Nghị quyết và một số văn kiện khác trình Đại hội XII của Đảng;
- Tiều ban kinh tế - xã hội, do đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng tiểu ban. Tiểu ban có nhiệm vụ xây dựng Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 trình Đại hội XII;
- Tiểu ban Điều lệ Đảng, do đồng chí Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban tổ chức trung ương Trưởng tiểu ban. Tiểu ban có nhiệm vụ chuẩn bị Báo cáo tổng kết việc thực hiện Điều lệ Đảng khóa XI và bổ sung, sửa đổi (nếu có) trình Đại hội XII của Đảng;
- Tiểu ban nhân sự, do đồng chí Nguyễn Phú Trọng Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Trưởng tiểu ban. Tiểu ban có nhiệm vụ xây dựng phương hướng nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XII trình Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương khóa XI thông qua; xây dựng kế hoạch triển khai việc giới thiệu nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XII trình Bộ Chính trị; xây dựng Báo cáo công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XII trình Đại hội XII của Đảng.
- Tiểu ban tổ chức phục vụ Đại hội, do đồng chí Lê Hồng Anh Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trưởng tiểu ban. Tiểu ban có nhiệm vụ chỉ đạo việc tổ chức phục vụ Đại hội XII của Đảng;
2- Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (họp tháng 5- 2014) đã thảo luận, cho ý kiến về Đề cương Báo cáo chính trị và Đề cương Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020.
3- Hội nghị Trung ương 10 khóa XI (họp tháng 1- 2015) đã thảo luận, cho ý kiến về các dự thảo văn kiện trình Đại hội XII và đề xuất bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng (nếu có).
4- Thực hiện chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã gửi các dự thảo văn kiện trình Đại hội XII của Đảng đến Đại hội đảng bộ các cấp thảo luận, góp ý kiến và sau đó ngày 15-9-2015 đã công bố công khai lấy ý kiến của đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân;
Đến đầu tháng 11-2015, tất cả 68 đảng bộ trực thuộc Trung ương đã gửi báo cáo tổng hợp ý kiến thảo luận ở đại hội đảng bộ góp ý vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII. Thông qua tổng hợp ý kiến góp ý của 68 Đảng bộ trực thuộc trung ương và Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân được 1.547 trang. Nhìn chung, các ý kiến cho rằng: đây là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong thể hiện tinh thần dân chủ ngày càng cao trong Đảng, trong nhân dân và trong xã hội. Hầu hết các ý kiến đánh giá: Dự thảo các văn kiện được chẩn bị công phu, nghiêm túc, khoa học, có chất lượng cao; phản ánh khá đầy đủ và toàn diện những kết quả đạt được, những hạn chế, khuyết điểm, yếu kém, sát hợp với tình hình thực tế; nhiều ý kiến đề nghị phân tích sâu hơn kết quả đạt được và hạn chế, yếu kém cần có phụ lục, số liệu để chứng minh…
Cá biệt, có một vài ý kiến với quan điểm sai trái, đề nghị Đại hội XII của Đảng thay đổi Cương lĩnh của Đảng (bổ sung, sửa đổi năm 2011) và Hiến pháp năm 2013. Đây là số rất ít và không phù hợp với mục tiêu, Đường lối của Đảng và nguyện vọng của nhân dân.
5- Hội nghị Trung ương 13 khóa XI (họp tháng 12- 2015) đã thảo luận và tán thành nội dung Báo cáo của Bộ Chính trị về tiếp thu ý kiến đóng góp của Đại hội của 68 Đảng bộ trực thuộc trung ương và Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, tiếp thu tối đa những ý kiến hợp lý, xác đáng để hoàn chỉnh các dự thảo văn kiện trình Đại hội XII của Đảng;
Ban chấp hành Trung ương bày tỏ sự trân trọng và chân thành cảm ơn các ý kiến tâm huyết, trí tuệ, với tinh thần trách nhiệm cao của Đại hội Đảng các cấp của đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, của cán bộ, đảng viên và nhân dân, đồng bào ta ở nước ngoài. Quyết định triệu tập Đại hội XII từ ngày 20-01-2016 đến ngày 28-01-2016.
II- Về chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII
Bầu Ban Chấp hành Trung ương là một trong những nội dung quan trọng của các kỳ đại hội. Tại Đại hội này, cùng với việc chuẩn bị văn kiện, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Tiểu ban Nhân sự đã dành nhiều công sức cho việc chuẩn bị nhân sự BCH Trung ương khóa XII.
Tiểu ban Nhân sự Đại hội XII không vượt quá 50% Ủy viên Bộ chính trị khóa XI (Đại hội XI thì toàn bộ các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị khóa X, nên có sự chồng chéo, không biết khi nào là chuẩn bị và khi nào là quyết định). Lần đầu tiên công tác quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương được tiến hành một cách khoa học, bài bản theo một quy trình chặt chẽ, kết hợp với công tác bồi dưỡng cán bộ nguồn.
- Giới thiệu các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đủ điều kiện, tiêu chuẩn tái cử Ban chấp hành Trung ương khóa XII;
- Xem xét, giới thiệu bổ sung nhân tố mới có đức, có tài, có tín nhiệm và có triển vọng về lãnh đạo, quản lý đủ tiêu chuẩn tham gia Ban chấp hành Trung ương khóa XII.
- Dự kiến việc phân công, bố trí công tác sau khi trúng cử và dự kiến đảm nhiệm các chức danh lãnh đạo các cơ quan nhà nước nhiệm kỳ 2016 - 2021 ở Trung ương và địa phương.
1- Hội nghị Trung ương 11 khóa XI (họp tháng 5- 2015) đã thảo luận và thông qua phương hướng công tác nhân sự Ban chấp hành Trung ương khóa XII về số lượng (200), yêu cầu về tiêu chuẩn, cơ cấu, độ tuổi và quy trình giới thiệu (trong đó có khoảng 180 ủy viên chính thức và khoảng 20 ủy viên dự khuyết).
2- Tại Hội nghị Trung ương 12 khóa XI (họp tháng 10- 2015) đã thảo luận về tình hình, kết quả giới thiệu nhân sự Ban chấp hành Trung ương khóa XII;
- Xem xét bỏ phiếu đề cử 101 đồng chí lần đầu tham gia Ban Chấp hành Trung ương, trong đó 82 đồng chí được đề cử để bầu Ban chấp hành Trung ương chính thức và 19 đồng chí đề cử bầu Ủy viên Trung ương dự khuyết.
- Ghi phiếu đề xuất nhân sự tái cử Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, và nhân sự đủ tiêu chuẩn, điều kiện tham gia Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XII.
- Hoàn thiện phương án nhân sự theo đúng quy hoạch và quy trình công tác nhân sự Ban chấp hành Trung ương khóa XII để báo cáo Ban chấp hành Trung ương khóa XI tại các hội nghị tiếp theo xem xét, quyết định.
3- Tại Hội nghị Trung ương 13 khóa XI (họp tháng 12- 2015) đã xem xét và bỏ phiếu biểu quyết đề cử 118 đồng chí Ủy viên Ban chấp hành Trung ương khóa XI đủ điều kiện, tiêu chuẩn tái cử Ban chấp hành Trung ương khóa XII, trong đó 95 ủy viên chính thức và 19 ủy viên dự khuyết được đề cử và có 02 đồng chí được tái cử là trường hợp “đặc biệt”.
- Ban chấp hành bỏ phiếu biểu quyết thông qua danh sách các đồng chí đủ tiêu chuẩn, điều kiện trong độ tuổi ứng cử Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XII;
- Ban chấp hành bỏ phiếu biểu quyết thông qua danh sách giới thiệu ứng cử UBKT Trung ương khóa XII;
4- Tại Hội nghị Trung ương 14 khóa XI (họp ngày 11 tháng 01- 2016) đã xem xét và cho rút 01 đồng chí ra khỏi danh sách đề cử Ủy viên Trung ương dự khuyết;
- Ban chấp hành Trung ương xem xét và giới thiệu 02 trường hợp “đặc biệt” là Ủy viên Trung ương chính thức khóa XI tái cử khóa XII; và 01 trường hợp “đặc biệt” là Ủy viên Bộ chính trị, Ban Bí thư tái cử để đảm nhiệm các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng;
- Thông qua phương án nhân sự Tổng Bí thư khóa XII, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội nhiệm kỳ 2016 - 2021;
- Thông qua danh sách Đoàn Chủ tịch, Đoàn Thư ký và Ban Thẩm tra tư cách đại biểu của Đại hội XII trình Đại hội xem xét quyết định;
- Kết quả giới thiệu: Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đề cử 221 đồng chí để đại hội xem xét bầu vào Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, trong đó 199 đồng chí được đề cử để bầu Ủy viên chính thức (đạt số dư 11% so với số lượng cần bầu) và 22 đồng chí đề cử để bầu vào Ủy viên dự khuyết (đạt số dư 11% so với số lượng cần bầu); có 04 đồng chí được Ban Chấp hành Trung ương khóa XI giới thiệu tái cử thuộc trường hợp “đặc biệt”.
III- Về Đại biểu dự Đại hội
Đến ngày 03-11-2015, có 67/68 đảng bộ trực thuộc Trung ương đã tổ chức xong đại hội (riêng Đảng bộ Ngoài nước họp Hội nghị đại biểu để thảo luận về các dự thảo văn kiện Đại hội XII và văn kiện của Đảng bộ…); bầu đủ số lượng 1.300 đại biểu chính thức và một số đại biểu dự khuyết theo phân bổ của Trung ương. Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã quyết định chỉ định 13 đại biểu của Đảng bộ Ngoài nước, cụ thể:
1- Đại biểu chính thức:
Đại biểu được triệu tập là 1.510 đồng chí, trong đó đại biểu đương nhiên là 197 đồng chí (13,05%); Đại biểu được bầu tại các đại hội trực thuộc trung ương là 1.300 đồng chí (86,09%). Đại biểu được chỉ định 13 đại biểu (của Đảng bộ Ngoài nước 0,86%); Đại biểu là nam 1.316 đồng chí (87,15%), nữ 194 đồng chí (12,85%), là người dân tộc thiểu số 174 (11,52%), 06 Anh hùng LLVT nhân dân (0,4%), 04 Anh hùng Lao động (0,26%);
Thời gian vào Đảng:
- Từ tháng 8- 1954 đến tháng 4 - 1975 có 39 đại biểu (2,58%);
- Từ tháng 5- 1975 đến tháng 12 - 1986 có 659 đại biểu (43,64%);
- Từ tháng 01- 1987 đến nay có 812 đại biểu (53,77%);
Được tặng huy hiệu 40 năm tuổi đảng có 43 đại biểu (2,85%); 30 năm tuổi đảng có 526 đại biểu (34,83%).
Trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, học hàm, học vị:
Trung cấp 01 đại biểu (0,07%); đại học 757 (50,13%); thạc sĩ 511 (33,84%); tiến sĩ 241 (15,96%); viện sĩ, giáo sư, phó giáo sư 57 (3,77%).
Trình độ lý luận chính trị:
Cao cấp, cử nhân có 1.501 đại biểu, chiếm 99,4%; trung cấp có 08 đại biểu, chiếm 0,53%; đang học cao cấp lý luận chính trị có 01 đại biểu;
Đại biểu cao tuổi nhất là đồng chí Hữu Thỉnh, Bí thư Đảng đoàn, chủ tịch liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (74 tuổi); đại biểu trẻ nhất là đồng chí Vàng Thị Lun, Huyện ủy viên, Bí thư huyện đoàn Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu (27 tuổi).
2- Đại biểu khách mời:
Đại hội đã mời 149 đại biểu là khách mời trong nước dự Đại hội (Đại hội XI mời 94 đại biểu), trong đó có 113 đồng chí về dự Đại hội (một số đồng chí do sức khỏe yếu không tham dự).
Đại hội XII của Đảng đã nhận được 248 điện, thư chúc mừng của các chính đảng, các tổ chức và bạn bè quốc tế từ khắp các châu lục trên thế giới. Đây là Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng nhận được điện, thư chúc mừng nhiều nhất so với các kỳ Đại hội truớc, thể hiện tình cảm sâu sắc của bạn bè quốc tế đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; đồng thời, khẳng định vai trò, vị thế, uy tín của Đảng, Nhà nước, dân tộc ta trên trường quốc tế. Tất cả các chính đảng, tổ chức và bạn bè quốc tế đều bày tỏ tình cảm chân thành và mong mốn Đại hội lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam thành công tốt đẹp, đồng thời mong mốn Đảng ta đưa ra được nhiều chủ trương, giải pháp thiết thực nhằm lãnh đạo, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng, công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước.
Phần thứ hai: Nội dung Đại hội
I- Nội dung chủ yếu của các Văn kiện trình Đại hội
1- Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020.
2- Báo cáo tổng kết việc thực hiện Điều lệ Đảng khóa XI.
3- Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI;
4- Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Với tinh thần dân chủ và trách nhiệm cao, các đại biểu đã dành nhiều thời gian nghiên cứu các văn kiện và sôi nổi thảo luận với 686 lượt đồng chí phát biểu tại đoàn; 34 đồng chí phát biểu tham luận tại hội trường trong tổng số 54 tham luận của các đại biểu đăng ký với Đoàn Chủ tịch Đại hội.
Tại Đại hội đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã trình bày báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI của Đảng với những nội dung sau:
Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
(Tiêu đề của Báo cáo này cũng là tiêu đề của Báo cáo chính trị và chủ đề của Đại hội).
Sau đây là những nội dung cốt lõi của các văn kiện trình Đại hội:
1- Vững bước trên con đường đổi mới:
Năm năm qua, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, tình hình thế giới, khu vực cũng có nhiều diễn biến rất phức tạp như:
Thế giới và khu vực:
Kinh tế thế giới chậm phục hồi; Khủng hoảng chính trị, nhiều nơi, nhiều nước; Cạnh tranh nhiều mặt ngày càng quyết liệt giữa các nước lớn tại khu vực; Các diễn biến phức tạp ở Biển Đông,… đã tác động bất lợi đến nước ta
Trong nước:
Ngay từ đầu nhiệm kỳ, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã có ảnh hưởng; những hạn chế, khiếm khuyết vốn có của nền kinh tế chưa được giải quyết; những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý và những vấn đề mới phát sinh làm cho lạm phát tăng cao…Thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu gây thiệt hại nặng nề; nhu cầu bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội ngày càng cao; đồng thời chúng ta phải giành nguồn lực để bảo đảm quốc phòng an ninh, bảo vệ chủ quyền đất nước trước những động thái mới của khu vực và thế giới…;
Trong bối cảnh đó chúng ta thực hiện Nghị quyết XI đạt được những thành quả quan trọng:
Kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức quy mô và tiềm lực được nâng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng được duy trì ở mức hợp lý; giáo dục và đào tạo, y tế, khoa học công nghệ có bước phát triển; đời sống nhân dân được nâng lên và an sinh xã hội được quan tâm hơn; chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng an ninh được tăng cường; độc lập chủ quyền của Tổ quốc được giữ vững; hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả; vị thế, uy tín quốc tế của nước ta ngày càng được nâng lên; dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy.Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được chú trọng và đạt kết quả quan trọng.
Hạn chế, khuyết điểm, yếu kém:
Đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện; nhiều chỉ tiêu phấn đấu để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt được; lĩnh vực giáo dục và đào tạo, y tế, khoa học công nghệ, văn hóa xã hội có nhiều hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục; đời sống của một bộ phận nhân dân ở vùng sâu, vùng xa còn khó khăn. Bốn nguy cơ Đảng ta chỉ ra vẫn còn tồn tại, diễn biến phức tạp; (Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và thế giới; suy thoái về tư tưởng, chính trị của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, gắn với tệ quan liêu tham nhũng; Những biểu hiện xa rời mục tiêu CNXH; âm mưu “Diền biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta); một số mặt công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị chuyển biến chậm.
Năm năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức đó là:
Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục phát triển mạnh. Khu vực Đông Nam Á đã trở thành cộng đồng, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa- kinh tế- chính trị chiến lược ngày càng quan trọng; đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông còn diễn ra gay gắt.
Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao. Nước ta sẽ thực hiện đầy đủ cam kết trong cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn.
Tuy nhiên vẫn còn có nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ Đảng ta chỉ ra vẫn tồn tại và diến biến tinh vi, phức tạp hơn, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí…
2- Phát triển nhanh, bền vững, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
Mục tiêu này đã được xác định từ Đại hội VIII và trên thực tế, 20 năm qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu thực hiện mục tiêu này. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan nên một số chỉ tiêu tiêu chí trong mục tiêu này chưa đạt được.
Để đạt được mục tiêu này trong thời gian tới chúng ta phải phấn đấu quyết liệt hơn, có hiệu quả những định hướng lớn sau:
- Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Động lực quan trọng nhất và cũng là điều kiện để đổi mới mô hình tăng trưởng là đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới, sáng tạo.
Tập trung xây dựng nền công nghiệp và thương hiệu công nghiệp quốc gia với tầm nhìn trung, dài hạn, có lộ trình cho từng giai đoạn; phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp chế tạo, chế biến, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử, hóa chất, công nghiệp xây dựng, xây lắp, công nghiệp quốc phòng, an ninh.
Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII thông qua chiến lược phát triển với ba khâu đột phá chiến lược:
(i) Xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là đổi mới cơ chế, chính sách nhằm giải phóng triệt để lực lượng sản xuất, mở rộng thị trường trong và ngoài nước;
(ii) Tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực, trọng tâm là giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ;
(iii) Đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, trọng tâm là cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh.
- Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tăng cường tiềm lực và đẩy mạnh ứng dụng khoa học- công nghệ;
Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất, chất lượng.
Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, làm cho khoa học công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Phấn đấu đến năm 2020, khoa học và công nghệ Việt Namđạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN.
- Xây dựng và phát triển văn hóa, con người;
Mục tiêu xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân- thiện- mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; xây dựng văn hóa trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ ông nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Làm cho giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực, mọi hoạt động, mọi quan hệ xã hội thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển bền vững.
Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tạo điều kiện để xây dựng con người Việt Nam đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ, năng lực, kỹ năng sáng tạo; khỏe về thể chất; nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật.
- Quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội;
- Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu;
3- Bảo vệ vững chắc Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; nâng cao hiệu quả hoạt động đội ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
- Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân, Công an nhân dân là nòng cốt.
- Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
- Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển.
- Thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế. Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia- dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi; thực hiện nhất quán được lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển;
- Đa dạng hóa, đa phương hóa trong hoạt động đối ngoại, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước.
- Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa xã hội, khoa học – công nghệ, giáo dục- đào tạo…
4- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc của trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân.
Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xa hội chủ nghĩa phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Đẩy mạnh việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
5- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
Đảng ta đã kiên trì, nhiêm túc thực hiện nhiệm vụ then chốt về xây dựng Đảng trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức đạt được những kết quả quan trọng. Đánh giá chung, Đảng ta giữ vững được bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới; xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng cũng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm, thể hiện trên các mặt, các nội dung, các khâu công tác. Nổi bật là: việc dự báo, hoạch định, lãnh đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà nước chưa kịp thời, đồng bộ, hiệu quả; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức Đảng còn thấp, có nơi mất sức chiến đấu; công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm thường xuyên; chất lượng sinh hoạt đảng, tính chiến đấu trong tự phê bình, phê bình còn yếu… Những hạn chế, khuyết điển trên của công tác xây dựng Đảng làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối vơi Đảng và Nhà nước.
6- Nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XII
Trong khi triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ Nghị quyết Đại hội trên các lĩnh vực, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
Một là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Hai là, xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng lãng phí, quan liêu.
Ba là, tập trung nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược: cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
Bốn là, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới.
Năm là, thu hút, phát huy mạnh mẽ nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.
Sáu là, phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.
II- Báo cáo về tổng kết việc thi hành Điều lệ Đảng khóa XI và đề xuất bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng khóa XI
Đại hội nhất trí với báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI và thống nhất khẳng định: Điều lệ Đảng là vấn đề rất hệ trọng, mới được Đại hội XI của Đảng thông qua. Thời gian từ sau khi có hướng dẫn thi hành Điều lệ Đảng khóa XI tới nay chưa dài, một số điểm mới được bổ sung, sửa đổi trong Điều lệ Đảng khóa XI vẫn cần có thêm thời gian để kiểm chứng. Mặt khác, những vướng mắc, hạn chế, khuyết điểm trong thi hành Điều lệ Đảng khóa XI chủ yếu xuất phát từ nguyên nhân chủ quan trong khâu tổ chức thi hành Điều lệ Đảng chưa nghiêm…
Do đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đồng ý không bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng hiện hành và giao cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII hướng dẫn, quy định cụ thể và tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm thi hành nghiêm, thống nhất Điều lệ trong toàn Đảng.
III- Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
Sau khi nghe Ban Chấp hành Trung ương khóa XI báo cáo kiểm điểm, đánh giá những thành tựu đạt được và những yếu kém, khuyết điểm trong nhiệm kỳ vừa qua; Đại hội XII đã nghiêm túc nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật và rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
1- Trong lãnh đạo phải toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm; bám sát Cương lĩnh, Chiến lược, Nghị quyết Đại hội, Quy chế làm việc và các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Trong chỉ đạo phải quyết liệt, kiên trì, sáng tạo, theo dõi, bám sát tình hình của đất nước và thế giới…
2- Trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội cần kiên trì thực hiện các mục tiêu lâu dài, các nhiệm vụ cơ bản; chú trọng ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện môi trường đầu tư, bảo đảm an sinh xã hội; phát huy mọi nguồn lực trong và ngoài nước. Phải giải quyết dứt điểm những yếu kém, ách tắc, tạo đột phá, để giữ vững và đẩy nhanh nhịp độ phát triển, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3- Chủ động, sáng tạo trong điều hành nhằm phát huy tốt sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong xử lý những vấn đề quan trọng, tình huống phức tạp liên quan đến chính trị, tư tưởng, kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
4- Thường xuyên nêu cao vai trò trách nhiệm, tính tiên phong, gương mẫu, giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong lãnh đạo quản lý, điều hành của các cấp ủy, người đứng đầu các tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
5- Chú trọng công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo. Phát huy dân chủ trong Đảng, trong xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, tạo sự nhất trí trong Đảng và đồng thuận xã hội. Kiên trì, kiên quyết chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cấn bộ, đảng viên, công chức, viên chức; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãnh phí, quan liêu; chú trọng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nộ bộ.
IV- Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”
1- Kết quả thực hiện Nghị quyết
Trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, với nỗ lực, trách nhiệm và quyết tâm cao, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã tập trung chỉ đạo bài bản và thực hiện quyết liệt nên đạt được một số kết quả sau:
Quá trình kiểm điểm tự phê bình và phê bình cơ bản đạt yêu cầu đề ra cùng với việc khắc phục, sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm sau kiểm điểm đã góp phần siết lại kỷ luật, kỷ cương, tạo được chuyển biến bước đầu trong việc ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng.
Khắc phục một số hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ và việc thực hiện nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã chú trọng nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, đổi mới phong cách và lề lối làm việc, nghiêm khắc với mình hơn, giữ gìn đạo đức, lối sống; có ý thức tự sửa chữa khuyết điểm, tự điều chỉnh hành vi và các hoạt động trong công tác và trong cuộc sống của mình, của gia đình, vợ con và người thân.
Việc lấy phiếu tín nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp dã có tác dụng tích cực, giúp cán bộ tự soi mình, tự điều chỉnh và khắc phục hạn chế, khuyết điểm, nỗ lực phấn đấu thực hiện tốt hơn chức trách, nhiệm vụ được giao.
Dân chủ trong Đảng và trong xã hội được phát huy. Cùng với việc lấy phiếu tín nhiệm, việc chất vấn trong Đảng, chất vấn tại Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đã được đổi mới, thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong đời sống kinh tế- xã hội của đất nước, của địa phương. Các thành viên Chính phủ, chính quyền các cấp giải trình làm rõ những nội dung chất vấn, rõ trách nhiệm của tập thể, của cá nhân, đề xuất giải pháp khắc phụ và thể hiện sự quyết tâm của bản thân để làm chuyển biến tình hình.
2- Những hạn chế, yếu kém trong thực hiện Nghị quyết
Trong tự phê bình và phê bình, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm vẫn còn khá phổ biến, một số đồng chí chưa tự giác nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao phụ trách. Một số tập thể, cá nhân phải kiểm điểm bổ sung hoặc kiểm điểm lại.
Qua kiểm điểm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp vẫn chưa làm rõ thực chất, mức độ nghiêm trọng của tình hình, xảy ra ở đâu, ai chịu trách nhiệm, như tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tình trạng chạy chức, chạy tội, tham nhũng, lợi ích nhóm…
Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa có giải pháp để khắc phục; tình trạng nể nang, né tránh trách nhiệm hoặc ngại va chạm trong đánh giá cán bộ vẫn còn khá phổ biến. Chưa ngăn chặn được tình trạng chạy chức, chạy quyền.
Tình trạng tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, sảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, làm cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Tình trạng uy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phậ cán bộ, đảng viên chưa được đẩy lùi; một sô rất ít cán bộ, đảng viên bị phần tứ xấu lợi dụng lôi kéo, kích động, xúi dục, mua chuộc đã có tư tưởng, hành động chống đối Đảng, Nhà nước.
3- Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm nêu trên
Đại hội đã chỉ ra những nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, khuyết điểm nêu trên như sau:
- Triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, rất phức tạp, khó dự báo. Các thế lực thù địch gia tăng hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ta.
- Tình trạng suy thoái, tham nhũng, lãng phí luôn là mối quan tâm, lo ngại lớn trong Đảng và xã hội. Đây là những vấn đề phức tạp, không thể khắc phục được ngay trong một thời gian ngắn.
- Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng uy thoái, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống tham nhũng, lãng phí là việc rất hệ trọng, có tác động đến sự tồn vong chế độ nhưng chỉ đạo thực hiện chưa quyết liệt, chưa đáp ứng đòi hỏi của tình hình.
- Cấp ủy, người đứng đầu ở một số nơi chưa quyết tâm, gương mẫu thực hiện Nghị quyết, chưa nêu cao trách nhiệm, chưa có biện pháp đủ mạnh để làm chuyển biến tình hình ở địa phương, đơn vị.
- Việc phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, sai phạm của cán bộ, đảng viên tại chi bộ vẫn đang là khâu yếu.
- Các vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 là những vấn đề quan trọng, khó và đã kéo dài nhiều nhiệm kỳ, song chưa có giải pháp đủ mạnh để khắc phục, giải quyết, cần phải kiên trì thực hiện đồng bộ và lâu dài.
4- Phương hướng tiếp tục thực hiện nghị quyết
Kiên quyết, kiên trì với quyết tâm chính trị cao tiếp tục đẩy mạnh thực hiện toàn diện Nghị quyết Trung ương 4 gắn với việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nhằm tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
- Nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải đề ra giải pháp, chương trình, kế hoạch cụ thể, kịp thời điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung những vấn đề, nội dung cần thiết để lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của địa phương, đơn vị mình, bảo đảm thiết thực, sáng tạo, hiệu quả, tập trung vào những khâu, lĩnh vực vừa qua thực hiện còn hạn chế và những vấn đề mới phát sinh.
- Nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên.
- Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 và Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị khóa XI về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Gắn việc thực hiện Quy định 101 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên với việc thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị.
- Kiên quyết đấu tranh phê phán với những biểu hiện sa sút về tư tưởng chính trị, thiếu trách nhiệm, vụ lợi cá nhân, vi phạm chuẩn mực đạo đức, lối sống…
- Kiên quyết đấu tranh kịp thời có hiệu quả với những âm mưu, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta của các thế lực thù địch, phản động, đối tượng cơ hội chính trị.
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, kiên trì về mục tiêu, lý tưởng cách mạng; tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động, mối liên hệ mật thiết gắn bó giữa Đảng với nhân dân.
- Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa các nguyên tắc về công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp. Đổi mới phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ, nhất là người đứng đầu theo hương công khai, dân chủ, minh bạch.
- Tiếp tục xây dựng, sớm ban hành và thực hiện cải cách chế độ tiền lương, nhà ở, an sinh xã hội gắn với sắp xếp lại bộ máy hành chính tinh gọn, tinh giản biên chế công chức, viên chức, cải cách hành chính. Chống đặc quyền, đặc lợi.
- Thực hiện kiểm điểm tự phê bình và phê bình hằng năm trong cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên theo tinh thần Nhị quyết Trung ương 4, trọng tâm là kiểm điểm việc sửa chữa, khắc phục các thiếu sót, khuyết điểm đã được chỉ ra qua kiểm điểm hằng năm và những vấn đề mới phát sinh liên quan đến trách nhiệm của tập thể và cá nhân.
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 một cách cụ thể, phù hợp, thiết thực. Chú trọng kiểm tra, giám sát ở những nơi có vấn đề nổi cộm qua kiểm điểm hoặc phản ảnh của các phương tiện thông tin đại chúng; kiểm tra, giám sát tổ chức phải gắn với kiểm tra cá nhân, nhất là người đứng đầu.
V- Kết quả bầu cử tại Đại hội
Đại hội đã dành nhiều thời gian thảo luận về công tác nhân sự, việc ứng cử, đề cử ở các đoàn và trên hội trường. Đại hội thảo luận dân chủ và bỏ phiếu kín đối với những trường hợp xin rút khỏi danh sách bầu cử với sự thống nhất cao trước khi chốt danh sách bầu cử. Đại hội chỉ bầu một lần đủ số lượng Ban Chấp hành Trung ương khoá XII gồm 200 đồng chí với số phiếu tập trung cao (đồng chí trúng cử có số phiếu thấp nhất cũng hơn 62%), trong đó có 180 ủy viên chính thức và 20 ủy viên dự khuyết. Đây cũng là nhiệm kỳ Đại hội bầu số lượng ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhiều nhất từ trước đến nay, tăng 5 đồng chí so với nhiệm kỳ Đại hội XI. Trong số các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII có 52% tái cử; 10% nữ; 8,5% là người dân tộc thiểu số; 21% dưới 50 tuổi và tuổi bình quân chung của Ban Chấp hành Trung ương là 53 tuổi. Ngày 27-1-2016, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII họp Hội nghị lần thứ nhất đã bầu Bộ Chính trị gồm 19 đồng chí (7 đ/c Ủy viên Bộ Chính trị khóa XI tái cử và 12 đồng chí lần đầu tham gia Bộ chính trị); bầu Ban Bí thư gồm 3 đồng chí; bầu Ủy ban Kiểm tra Trung ương 21 đồng chí và Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI được Đại hội bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị và tái cử chức Tổng Bí thư của Đảng nhiệm kỳ khoá XII với số phiếu tập trung rất cao. Đồng chí Trần Quốc Vượng được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Trong số các Ủy viên Bộ Chính trị khoá XII có 12 đồng chí mới, 3 đồng chí nữ, 1 đồng chí là người dân tộc thiểu số và 1 đồng chí dưới 50 tuổi./.
Cao Hồng Kỳ, Bí thư Chi bộ LHH Hà Giang biên tập từ nguồn
Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh